Cùng với việc xây dựng, nuôi dưỡng và nhân rộng ngày càng nhiều các tấm gương điển hình trong công tác quản lý thuế thì kết quả thu NSNN trong 4 năm 2011-2014 đạt 25.466 tỷ đồng, bằng 119,1% tổng dự toán, tương ứng tốc độ tăng thu bình quân năm là 11%, đặc biệt thu thuế từ khối đầu tư nước ngoài tăng 12 lần..., là những dấu ấn nổi bật cho các phong trào thi đua của ngành thuế Thanh Hoá trong cả giai đoạn đầu của thập kỷ này.
Từ những sáng kiến thu nghìn tỷ đồng cho NS...
Đến với Đại hội điển hình tiên tiến ngành thuế Thanh Hoá lần thứ IV, các đại biểu tham dự không chỉ bất ngờ với những thành tích chung mà Cục Thuế ghi nhận trong 4 năm gần đây, mà còn rất ấn tượng với những sáng kiến cải tiến phương thức quản lý thuế được gây dựng từ cơ sở hay được kiến tạo, hoàn thiện dần qua thực tiễn làm nghề. Điển hình nhất trong số này sáng kiến cải tiến công tác quản lý thuế đối với các nhà thầu nước ngoài.
Nếu trong ký ức của ai đó vẫn còn lưu giữ những ký ức về một miền quê Thanh Hoá “đất cằn, người đông” thì hẳn sẽ không khỏi ngỡ ngàng với diện mạo xứ Thanh ở thời điểm này, khi tốc độ phát triển nhanh chóng theo hướng hiện đại của địa phương đã đưa cái tên Thanh Hoá trở thành đô thị loại I thứ 4 của cả nước. TP Thanh Hoá giờ đây không chỉ là mảnh đất hứa đối với các DN trong nước, mà còn là điểm đến hấp dẫn của 44 DN đầu tư nước ngoài (ĐTNN) từ 7 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, với hàng trăm nhà thầu tham gia vào các dự án. Việc ngày càng có nhiều các DN, nhà thầu nước ngoài chọn Thanh Hoá là điểm dừng chân cho dù mang tới cho TP nhiều lợi thế phát triển kinh tế - xã hội, nhưng cũng đặt ra cho công tác quản lý không ít thách thức. Riêng đối với công tác quản lý thuế, Trưởng Phòng Thanh tra số 2 Lê Sỹ Dũng cho biết, việc số lượng nhà thầu phụ cũng như giá trị các hợp đồng tăng đột biến khiến cách quản lý thu theo phương thức truyền thống, tức là từng nhà thầu tự kê khai, nộp thuế dần trở nên không hiệu quả khi cơ quan thuế phải mất rất nhiều nhân lực theo dõi, trong khi vẫn không tránh được các trường hợp nhà thầu khai thiếu thuế hay chậm nộp thuế. Sau khi nghiên cứu kỹ các tình huống phát sinh, Phòng đã tham mưu với lãnh đạo Cục Thuế đề xuất lên Tổng cục Thuế phương án quản lý thuế TNDN tập trung thông qua nhà thầu chính. Theo đó thay vì từng nhà thầu phụ phải kê khai thuế theo từng giá trị hợp đồng, rồi nhà thầu chính phải đối chiếu doanh thu, các khoản khấu trừ... mất rầt nhiều thời gian, chi phí cho DN, Cục Thuế thay đổi bằng cách giao nhà thầu chính kê khai, nộp thuế TNDN trên toàn bộ giá trị hợp đồng thầu nhằm quản lý được đầy đủ, kịp thời, chính xác mọi khoản thu phát sinh. Phương thức mới không chỉ giúp Cục Thuế thu gọn số thuế 903,5 tỷ đồng (chiếm 43,9% tổng thu khối ĐTNN) của các nhà thầu nước ngoài tham gia trong hợp đồng tổng thầu EPC xây dựng Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn năm 2014, mà còn góp phần đơn giản, minh bạch, cải cách, rút ngắn nhiều thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho DN. Quan trọng hơn là bằng các giải pháp quản lý thuế khối ĐTNN ngày càng được hoàn thiện, Cục Thuế Thanh Hoá đã vừa đưa tổng thu từ các DN ĐTNN trên địa bàn lên con số 2.056 tỷ đồng, tăng 2,75 lần so với năm 2013 và tăng tới 12 lần so với năm 2010, vừa góp phần cải thiện môi trường đầu tư, đưa chỉ số năng lực cạnh tranh của địa phương vươn lên vị trí 8/63 tỉnh, TP trong cả nước.
Một sáng kiến khác đã mang lại cho Thanh Hoá 150 tỷ đồng trong vòng hơn 2 năm áp dụng, đó là việc cải tiến biện pháp quản lý thu đối với hoạt động khai khoáng. Phó cục trưởng Cục Thuế Thanh Hoá Ngô Đình Hùng nhớ lại: là tỉnh giàu tài nguyên, khoảng sản, khối lượng đất, đã, cát, sỏi cung cấp cho các công trình xây dựng, giao thông hàng năm rất lớn, song mức thu tiền cấp quyền khai thác đối với các DN do chưa xác định đúng nên số thất thu NS còn lớn. Nhận thấy bất cập này ở thời điểm những năm 2010-2011, khi chưa có nghị định, thông tư hướng dẫn, Cục Thuế đã chủ động nghiên cứu rồi phối hợp với Sở Tài chính, Sở Tài nguyên & Môi trường đề xuất và tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Quyết định về việc phê duyệt phương pháp xác định giá giao cấp quyền khai thác mỏ vật liệu xây dựng trên địa bàn. Theo đó, Cục Thuế đã phối hợp với các ngành tổ chức rà soát tất cả các mỏ khoáng sản, xác định mức tạm thu tiền cấp quyền khai thác phù hợp với từng mỏ rồi trình UBND tinh ban hành, trường hợp DN không chấp hành, địa phương cương quyết thu hồi mỏ. Từ nền móng này, đến nay việc quản lý thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản của Thanh Hoá đã đi vào nề nếp, mang lại cho NSNN hàng trăm tỷ đồng.
Với quan điểm đúng đắn rằng: “sự thành công trong việc thực hiện các chính sách, chế độ thuế không chỉ nhờ vào sự hoàn hảo của các văn bản pháp quy mà còn phụ thuộc rất lớn vào lượng kiến thức, ý thức trách nhiệm và kỹ năng giao tiếp của từng cán bộ thuế”, Chi cục Thuế TP Thanh Hoá đã phát kiến giải pháp thường xuyên đào tạo kết hợp kiểm tra kiến thức chuyên môn và kỹ năng giao tiếp, ứng xử đối với tất cả cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan. Nề nếp này đã giúp chi cục xây dựng được một môi trường làm việc chuyên nghiệp, tận tuỵ, nơi mà người nộp thuế luôn tìm được sự hỗ trợ và đồng hành trong mọi tình huống. Và khi công tác tuyên truyền hỗ trợ được nhận định là yêú tố đầu vào quan trọng của quản lý thuế thì việc Chi cục Thuế TP Thanh Hoá liên tục hoàn thành vượt mức dự toán thu NSNN được giao trong nhiều năm qua cũng là điều dễ hiểu, đặc biệt năm 2014, Chi cục còn thu vượt 68,1% so với kế hoạch được giao.
Hội tụ tinh thần thi đua phấn đấu của CBCC toàn ngành, kết tinh các sáng kiến cải tiến về quản lý thuế trong nhiều năm, đến năm 2014, số thu NSNN do Cục Thuế Thanh Hoá thực hiện được 8.268 tỷ đồng, bằng 159,6% dự toán pháp lệnh, tăng 37,6% so với năm trước. Tổng thu NSNN trong 4 năm 2011-2014 đạt 25.466 tỷ đồng, bằng 119,1% tổng dự toán của thời kỳ, bình quân tốc độ tăng thu là 11%/năm. Riêng số thu ngân sách từ khối đầu tư nước ngoài nếu năm 2010 mới chiếm 3,4% tổng thu NSNN của tỉnh thì năm 2014 đã đạt tỷ lệ 26%, tăng gấp 12 lần so với thời điểm 4 năm trước.
... đến bài học chung của các phong trào thi đua
Nói về 221 sáng kiến cải tiến trong lĩnh vực thuế đã được công nhận và rất nhiều danh hiệu thi đua mà các tập thể, cá nhân ngành thuế đã đạt được trong 5 năm 2010-2014, Cục trưởng Cục Thuế Thanh Hoá Lê Ngọc Sơn thành thật “làm thi đua thời buổi này không dễ, bởi nếu không thiết thực, cụ thể, sát sao thì sẽ bị hình thức và không thu hút được anh em tham gia”. Chính vì luôn tâm niệm điều này mà nhiều năm qua, các phong trào thì đua cở Cục Thuế Thanh Hoá luôn được tiến hành thường xuyên, liên tục dưới sự quan tâm, chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo cấp uỷ, chuyên môn, trong đó vai trò của người đứng đầu cơ quan và sự tham gia tích cực của các tổ chức đoàn thể luôn được đề cao. Với mỗi một phong trào thi đua được phát động, cùng với việc luôn nghiên cứu kỹ lưỡng để cụ thể hoá thành các mục tiêu, nội dung thi đua cụ thể gắn với các công việc hàng ngày, trong khả năng của cán bộ, công chức, Cục Thuế còn xây dựng các cơ chế, tiêu chuẩn thưởng - phạt rõ ràng nhằm động viên, hối thúc CBCC tham gia. Đặc biệt, dù công việc sự vụ quản lý hàng ngày có bận đến mấy thì việc đánh giá, tổng kết sau mỗi đợt thi đua Cục Thuế đều không thể bỏ qua, bởi việc này không chỉ cho thấy sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của lãnh đạo cơ quan với phong trào, mà còn là dịp để công khai những đóng góp của từng tập thể, cá nhân đối với công việc chung. “Đôi khi việc trao giấy khen hay bằng khen của các cấp cao lại không có giá trị khích lệ bằng việc ghi nhận công lao tại chính đơn vị, cơ quan đang công tác khi được chính những đồng nghiệp công nhận” - Cục trưởng Lê Ngọc Sơn đúc kết. Bằng cách này, Cục Thuế đã khơi gợi được sự phấn đấu thi đua của cả tập thể để xây dựng thành những phong trào thi đua rộng khắp.
Một bài học nữa cũng được Cục Thuế Thanh Hoá nhấn mạnh là cùng với việc công nhận thành tích của các cá nhân, tập thể từ các phong trào thì đua, lãnh đạo cơ quan phải chủ động xem xét các hình thức động viên thiết thực, gắn với quá trình công tác của mỗi CBCC. Bên cạnh đó, những tấm gương người tốt, việc làm tốt, mô hình quản lý hay phải được quảng bá, nhân rộng ngay sau khi phát hiện để vừa có tác dụng khuyến khích anh em, vừa mang lại hiện quả kịp thời cho nhiệm vụ chung của toàn ngành./.